Hầu hết công việc của một thầy thuốc lâm sàng đều có liên quan và tương đồng với công việc của một nhà thám tử. Để có thể tìm ra được nguyên nhân của một bệnh, các bác sĩ phải dựa trên một loạt các dữ kiện đầu mối: kết quả cận lâm sàng, tiền sử các bệnh liên quan, cơ địa, làn da của bệnh nhân…
Làn da có liên quan mật thiết đến sức khỏe của cơ thể
Trong nỗ lực tìm đầu mối đầy khó khăn và thử thách này, biểu hiện của làn da cũng rất có giá trị trong chẩn đoán. Ngoài việc là cơ quan cảm giác lớn nhất và chiếm diện tích lớn nhất cơ thể nói chung, tình trạng da còn như một cửa sổ phản ánh vấn đề sức khỏe bên trong cơ thể đang gặp phải. Một số thay đổi ở da là hậu quả của các vấn đề sức khỏe. Làn da giống như một hệ thống cảnh báo sớm, là một gợi ý cho bác sĩ có những chỉ định xét nghiệm máu hoặc chụp MRI cần thiết để xem những gì đang thực sự xảy ra bên trong.
Dưới đây là phần tóm tắt ngắn gọn về một số dấu hiệu ngoài da và những vấn đề liên quan đến tình trạng sức khỏe bên trong cơ thể:
- Phát ban dai dẳng trên mũi và má có thể là một dấu hiệu của bệnh lupus ban đỏ. Những mẩn đỏ này giống như hình dạng một con bướm, có thể kèm theo phát ban đỏ lớn ở những nơi khác trên cơ thể và tăng nhạy cảm với ánh sáng mặt trời.
- Vàng da có thể là một dấu hiệu của bệnh liên quan đến gan.
- Da dày lên, thường là trên mu bàn tay và quanh cổ, tình trạng này có thể gặp phải ở những người đã mắc bệnh tiểu đường một vài năm.
- Da khô quá mức và tóc khô dễ gãy, có thể là dấu hiệu của tình trạng tuyến giáp giảm hoạt động hoặc suy giáp.
- Những mụn nước gây đau bên trong miệng, trên lòng bàn tay và lòng bàn chân có thể chỉ ra đây là bệnh tay, chân, miệng. Bệnh này gây ra bởi một loại virus, trẻ em là đối tượng hay gặp phải. Những mụn này cũng có thể kèm theo những đốm đỏ hoặc sốt nhẹ.
- Một sự đổi màu của da từ bình thường sang xanh tím tái, kèm theo tê, rát hay đau các ngón tay và ngón chân, có thể là một dấu hiệu của một căn bệnh hiếm gặp của các mạch máu gọi là bệnh Buerger (viêm thuyên tắc mạch máu). Thường gặp nhất ở những người hút thuốc lâu năm, nó có thể gây loét da và nếu không được điều trị, thậm chí phải đoạn chi.
- Môi khô: đây là dấu hiệu giúp dễ dàng nhận ra rằng cơ thể mình đang bị thiếu nước, và sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe của làn da. Ngoài việc uống nhiều nước hằng ngày, mọi người cũng cần tăng cường dưỡng ấm da cũng như chăm sóc cho đôi môi thêm tươi tắn.
Bệnh ung thư và làn da
Một số bệnh ung thư bên trong cơ thể sẽ gây ra những biến đổi ở làn da. Trong những trường hợp này, các biểu hiện của bệnh trên da sẽ xuất hiện sau đó hoặc cùng lúc với thời điểm bệnh ung thư bắt đầu tiến triển. Sự tăng trưởng hay suy giảm của các dấu hiệu da này cũng chính là sự tiến triển hay thuyên giảm của tình trạng ung thư.
Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng những bệnh ung thư thường gặp nhất như phổi, thận, buồng trứng sẽ xuất hiện biểu hiện trên da trước khi chúng được phát hiện từ bên trong. Ngoài ra, các nghiên cứu cho thấy rằng, có một tỷ lệ là từ 1-4% bệnh ung thư sẽ lây lan đến làn da. Các bệnh ung thư có khả năng nhất để làm điều này bao gồm ung thư vú, dạ dày, phổi, tử cung, thận, buồng trứng, ruột già và bàng quang. Khi các khối u ác tính đã xuất hiện và di căn tới da, ta không nên nhầm lẫn với ung thư da, mà đó là một tình trạng hoàn toàn khác. Thật không may, vào thời điểm mà các bệnh ung thư đã có biểu hiện lây lan đến da, chúng phải được xem xét trên diện rộng và có thể đã di căn.
Một số bệnh ung thư sẽ gây biến đổi về làn da
Bệnh gan và làn da
Một trong những dấu hiệu ngoài da phổ biến nhất phản ánh tình trạng hệ thống tiêu hóa đang gặp vấn đề là vàng da. Kết quả vàng da là từ sự tích tụ của bilirubin trong da, xảy ra ở trẻ sơ sinh và sẽ biến mất với điều trị đơn giản hoặc không điều trị gì cả. Cơ thể thường tạo thành một chất gọi là bilirubin từ sự phân hủy của hemoglobin trong các tế bào hồng cầu đã chết đi.
Thông thường, người bị bệnh vàng da có màu vàng những nơi có hàm lượng mô đàn hồi cao. Nơi đầu tiên mà vàng da xảy ra có thể quan sát được là lòng trắng của mắt, tiếp theo là da mặt, vòm trên của thành miệng và thành bụng. Vàng da có thể được nhìn thấy rõ nhất trong ánh sáng ban ngày. Một số trường hợp vàng da có thể biểu hiện bằng một màu khác với màu vàng, tùy thuộc vào nơi tích tụ bilirubin hoặc các sản phẩm phân hủy của nó đã xảy ra trong cơ thể. Màu xanh lục có thể được nhìn thấy trong bệnh vàng da khi gan đã biến đổi bilirubin nhưng không thể đổ ra ống dẫn mật để vào ruột. Tình trạng này có thể gặp trong trường hợp có ung thư chèn ép làm chặn lối ra của mật.
Vàng da là một trong những dấu hiệu cho thấy có thể bệnh nhân đang có bệnh gan cấp tính hoặc mãn tính, nhiều khả năng liên quan đến bệnh gan mãn tính. Tất cả những dấu hiệu da, bao gồm vàng da, là dấu hiệu của bệnh gan tiến triển. Sẽ có thêm biểu hiện ngứa nếu hệ thống sản xuất mật gặp trục trặc.
Một số người bị bệnh xơ gan thì lòng bàn tay có màu đỏ gọi là bàn tay son và vết bầm tím rất dễ dàng xuất hiện. Điều này xảy ra khi các yếu tố cần thiết cho sự đông máu không còn được sản xuất trong gan với số lượng đầy đủ.
Một số người bị mất số lượng lớn lông trên cơ thể có liên quan tới tình trạng bệnh gan mãn tính phát triển, tăng estrogen (hormon nữ); điều này có thể dẫn đến phì đại vú, sự co lại của tinh hoàn, và rụng lông ở nách hoặc toàn thân. Có thể gây sưng mắt cá chân.
Vàng da là 1 trong những biểu hiện của bệnh gan
Bệnh thận và làn da
Những người đang mắc bệnh thận sẽ nhận thấy nhiều thay đổi trên làn da của mình. Trong một nghiên cứu lớn về bệnh nhân suy thận: 70% bệnh nhân có sự thay đổi màu sắc da, 40% có một chút màu vàng nhạt trên làn da của mình, trong khi 30% có sự gia tăng màu nâu ở lòng bàn tay hoặc lòng bàn chân của họ. Một lần nữa, 70% những người được nghiên cứu có nhiễm nấm móng tay, móng chân. Khoảng 2/3 số bệnh nhân điều trị thận thất bại cũng có những thay đổi trong móng tay của họ. Sự thay đổi phổ biến nhất được gọi là “một nửa” móng tay, trong đó một nửa của móng gần với các lớp biểu bì sẽ có màu trắng trong khi nửa còn lại là bình thường hoặc hồng. Điều này lý giải là do sự gia tăng chất dịch bên dưới móng tay (phần trắng) trong suy thận.
Hầu như tất cả những người bị suy thận có làn da rất khô, 2/3 trong số họ gặp tình trạng ngứa trầm trọng. Trong một số trường hợp, cảm giác ngứa thậm chí trầm trọng hơn khi chạy thận. Mặc dù nguyên nhân của ngứa là không rõ, nó có thể được cải thiện với việc điều trị ánh sáng cực tím nhân tạo.
Bệnh thận dẫn đến nhiều sự thay đổi về làn da
Hormon và làn da
Hormon được sản xuất bởi các cơ quan khác nhau, chẳng hạn như tuyến giáp hoặc tuyến tụy, có thể ảnh hưởng đến sự biểu hiện của da. Những hormon này có thể tương tác trực tiếp với các tế bào trong da, hoặc sự tăng quá mức hay suy giảm hormon có thể gây ra một tình trạng trong cơ thể dẫn đến biểu hiện trên da.
Kích thích tố nam, còn được gọi là nội tiết tố androgen có tác dụng rất lớn trên cả các tuyến bã nhờn và tóc. Phụ nữ cũng sản xuất androgen với số lượng thấp ở buồng trứng và tuyến thượng thận. Androgen dư thừa ở phụ nữ có thể gây ra một dạng nặng của mụn trứng cá, cũng như tăng lông mặt và tình trạng hói của da đầu. Những người phụ nữ này cũng có thể gặp tình trạng thâm nâu vùng da xung quanh bộ phận sinh dục và núm vú. Bất kỳ phụ nữ nào gặp triệu chứng này nên đi khám bác sĩ để kiểm tra xem có một sự mất cân bằng nội tiết tố nào xảy ra hay không. Có một số trường hợp, mụn trứng cá nặng hoặc lông mặt ở phụ nữ là do di truyền và không liên quan đến vấn đề nội tiết tố.
Bệnh suy tuyến thượng thận (Addison): vì nhiều lý do, tuyến thượng thận có thể chậm sản xuất nội tiết tố. Các hormon cơ thể quan trọng được sản xuất bởi tuyến thượng thận là cortisol và aldosteron, cần thiết cho sự hấp thụ và lưu giữ muối trong cơ thể. Những người không sản xuất đủ những hormon này sẽ dẫn tới gia tăng sản xuất một loại hormon kích thích gọi là ACTH từ tuyến yên ở đáy não. ACTH bản thân xuất phát từ một hormon có nhiều tác động trên cơ thể, có sản phẩm phân hủy ảnh hưởng đến sắc tố của da. Làn da ở những bệnh nhân Addison sẽ trở nên thâm sạm ở những vùng da thường xuyên cọ xát như khuỷu tay, đầu gối, các nếp gấp da, nếp nhăn ở lòng bàn tay cũng như các vùng đầu vú, nách, bẹn vốn cũng đã dễ thâm trong điều kiện bình thường.
Hormon ảnh hưởng đến biểu hiện của làn da
Bệnh tiểu đường và làn da
Tình trạng nhiễm nấm da phổ biến nhất ở những người bị bệnh tiểu đường là Candida. Khi không đủ insulin, lượng đường trong máu tăng lên. Đường trong máu dùng làm dinh dưỡng cho các vi nấm Candida. Các dấu hiệu thường gặp nhất của nấm Candida là khu vực niêm mạc hay chỗ có nhiều máu tươi sẽ xuất hiện các mô màu trắng bao quanh bởi mụn nhỏ. Những đốm được tìm thấy trong hoặc gần khu vực niêm mạc như háng, trên lưỡi và trong miệng. Cũng có khi xuất hiện các khu vực nếp gấp da như dưới vú, giữa các ngón tay, hoặc thậm chí trong móng tay. Bất cứ ai thường xuyên có các biểu hiện trên về da nên được tầm soát bệnh tiểu đường.
Bệnh tuyến giáp và làn da
Tuyến giáp sản xuất một hormon điều chỉnh sự trao đổi chất và năng lượng tổng thể của cơ thể. Khi lượng hormon tuyến giáp suy giảm, sẽ xuất hiện bệnh cảnh mệt mỏi, và nhiệt độ cơ thể thay đổi đột ngột. Trong trường hợp nhẹ của suy giáp thì da sẽ trở nên khô, có vảy, lạnh và xanh xao, tóc khô. Da có thể bị ngứa và các móng tay có thể bị giòn hơn.
Nếu suy giáp không được kiểm soát, da có thể trở nên vàng và dày khắp cơ thể. Môi và lưỡi có thể trở nên dày lên, và thường bị rụng lông mày. Sau khi đã chẩn đoán xác định là suy giáp, sử dụng hormon tuyến giáp thay thế có thể được chỉ định và những thay đổi làn da sẽ sớm biến mất. Nếu tuyến giáp tăng cường sản xuất hormon tuyến giáp, một tình trạng gọi là cường giáp sẽ xảy ra. Trường hợp này ít phổ biến hơn so với suy giáp. Lúc này làn da trở nên ẩm ướt, ấm áp, mượt mà, và đỏ. Da có thể vẫn bị ngứa và các móng tay có thể tách ra khỏi nền móng.
Bệnh tuyến giáp có thể làm da vàng và dày
Mụn xuất hiện do một số loại thuốc
Một số loại thuốc có thể gây ra hoặc làm trầm trọng thêm tình trạng mụn. Hormon tuyến yên, corticoid, nội tiết tố ở nữ, thuốc tránh thai, một số thuốc tác động trên thần kinh, động kinh là một trong những thuốc thường xuyên gây ra mụn.
Corticoid, nội tiết tố ở nữ, thuốc tránh thai có thể dẫn đến mụn
Rối loạn về sắc tố da
Thay đổi màu da do thuốc có thể là kết quả của tăng (hoặc giảm) tổng hợp melanin hoặc lắng đọng sắc tố trên da do những thuốc: màu xám, xám xanh, nâu, vàng. Đôi khi bản chất chính xác của các sắc tố là không rõ ràng. Những sự thay đổi sắc tố có thể là lan tỏa hoặc khu trú.
Ví dụ: sự hình thành vệt màu nâu trên da do thay đổi sắc tố sau thời gian dùng thuốc chống động kinh trên vùng da thường tiếp xúc với ánh sáng xảy ra ở khoảng 10% bệnh nhân và phụ nữ có nhiều khả năng bị ảnh hưởng hơn. Rối loạn sắc tố này chủ yếu xảy ra trên mặt, cổ và cánh tay.
Thay đổi sắc tố phát triển trong khoảng 25% số bệnh nhân dùng thuốc chống sốt rét trong hơn 3 hoặc 4 tháng. Ống quyển và khu vực trước xương chày thường bị ảnh hưởng nhiều nhất. Các vết sắc tố lắng đọng có màu sắc thay đổi từ màu xám đến xanh – đen. Tăng sắc tố sau khi sử dụng lâu dài cũng được báo cáo trên sử dụng kháng sinh và thuốc trị trầm cảm.
Thay đổi màu da do thuốc có thể là kết quả của tăng (hoặc giảm) tổng hợp melanin
Sự tăng nhạy cảm với ánh sáng
Đây là tình trạng da tăng phản ứng với ánh sáng mặt trời khi chiếu xạ ở liều bình thường. Tác dụng này xảy ra có thể do việc sử dụng các loại thuốc dùng tại chỗ hay toàn thân. Một số thuốc gây ra tác dụng này bao gồm: thuốc chống loạn nhịp, NSAID, thuốc an thần, vitamin A, kháng sinh, một số thuốc lợi niệu.
Phản ứng nhạy cảm ánh sáng rất phổ biến và có thể xuất hiện ở hầu hết các cá nhân dùng liều cao. Sự tăng nhạy cảm ánh sáng thường xảy ra trong trong vòng 5-20 giờ tiếp xúc với các biểu hiện như cháy nắng, ban đỏ, phù nề, phồng rộp, bong vảy. Biểu hiện khác của sự tăng nhạy cảm ánh sáng có thể là sự tăng sắc tố da trên vùng bị kích ứng. Một số kháng sinh liên quan đến phản ứng này.
Là tình trạng da tăng phản ứng với ánh sáng mặt trời khi chiếu xạ ở liều bình thường
Rối loạn về móng
Sự thay đổi móng do thuốc xảy ra rất đa dạng, xuất hiện trong một vài tuần dùng thuốc. Vấn đề móng tay có thể không có triệu chứng đau đớn hay suy giảm chức năng. Các rối loạn này thường hồi phục khi ngừng thuốc. Móng tay có các bất thường bao gồm xuất hiện bậc ngang trên móng, móng tay giòn, biến dạng… Cơ chế ảnh hưởng của thuốc vẫn chưa được xác định rõ nhưng hầu hết các trường hợp đều được cho là có liên quan đến tác dụng độc hại của thuốc trên biểu mô móng. Một số yếu tố có thể lắng đọng ở móng, dẫn đến móng tay đổi màu, giảm tưới máu, gây hoại tử móng. Một số loại thuốc có thể gây rối loạn móng là thuốc trầm cảm, loạn thần, kháng sinh, vitamin A…
Thuốc trầm cảm, loạn thần, kháng sinh, vitamin A…có thể gây rối loạn về móng
Corticoid ảnh hưởng đến biểu hiện của da
Việc sử dụng corticoid có thể gây ra hoặc làm trầm trọng thêm tình trạng mụn, bằng chứng là thường xảy ra ở bệnh nhân có hội chứng Cushing. Điều trị corticoid toàn thân, tại chỗ hay đường hít đều có thể gây hình thành mụn. Corticoid gây ra các vấn đề về da bao gồm các nốt viêm, mụn mủ có sự đồng nhất về kích thước cùng với ít hoặc không có mụn trứng cá. Tác dụng chống viêm của corticoid ban đầu có thể ngăn chặn các nốt viêm, mụn mủ, giảm đỏ da. Tuy nhiên, khi ngưng sử dụng có thể gây ra sự bùng phát các tình trạng trên.
Hấp thu qua da của corticoid sau khi bôi khác nhau giữa các cá nhân, thành phần công thức và vị trí giải phẫu. Vị trí hàng, cổ và mặt có khả năng hấp thu nhiều Corticoid tại chỗ gây nhiều tác dụng phụ. Yếu tố ảnh hưởng đến hấp thu qua da là độ dày của lớp sừng và thành phần lipid. Da mặt là nơi có khả năng thẩm thấu tốt hơn do có lớp sừng mỏng và có sự phân bố của nhiều tuyến bã nhờn. Đối với vùng da tổn thương trong viêm da dị ứng thì sự xâm nhập của corticoid có thể lớn hơn 2-10 lần.
Việc sử dụng corticoid có thể gây ra hoặc làm trầm trọng thêm tình trạng mụn
Tổn thương mụn do corticoid gây ra và mụn thông thường khác nhau dựa trên đánh giá mô học. Trong mụn thông thường, quan sát thấy keratin bất thường của biểu mô tuyến bã. Đối với sự bùng phát mụn do việc sử dụng corticoid chủ yếu là nốt sần và mụn mủ. Trong mụn thông thường, các tổn thương chính là mụn trứng cá. Tuy nhiên, mụn trứng cá có thể có mặt trong sử dụng corticoid. Sử dụng corticoid tại chỗ dân đến tăng nồng độ của các acid béo tự do trong lipid bề mặt da và tăng số lượng vi khuẩn ống tiết bã nhờn. Đây là những yếu tố thúc đẩy hình thành mụn trên da.
Để giảm thiểu rủi ro, nên sử dụng corticoid trong thời gian ngắn mà vẫn đảm bảo hiệu quả. Các tác dụng phụ thường gặp nhất của corticoid dùng ngoài là teo da. Tất cả các corticoid tại chỗ có thể gây teo da, mỏng da, nguy cơ cao hơn ở người lớn tuổi. Mặt, mu bàn tay và các khu vực bị hăm đặc biệt nhạy cảm hơn. Sử dụng tretinoin bôi có thể giảm tỷ lệ teo do corticoid. Tác dụng phụ khác từ corticoid tại chỗ bao gồm teo da vĩnh viễn, giãn mao mạch. Corticoid tại chỗ cũng có thể gây ra bệnh trứng cá đỏ (rosacea) với các biểu hiện ban đỏ, nốt sần và mụn mủ. Nếu các triệu chứng tái phát và hiệu lực corticoid tăng lên, bệnh đỏ bừng mặt trở nên dai dẳng thì nên chấm dứt việc dùng corticoid. Điều này có thể gây ra cơn bộc phát ban đỏ nặng và mụn viêm sau đó.
Việc Sử dụng corticoid bôi trên da có thể cũng dẫn đến giảm sắc tố, rõ ràng hơn trên những da tối nhưng có thể xảy ra ở tất cả các loại da. Sự hồi phục lại sắc tố da thường xảy ra sau khi ngưng sử dụng corticoid. Corticoid có thể gây ra bệnh viêm da tiếp xúc trong một số ít bệnh nhân.
Thuốc chứa nội tiết tố nữ
Khi nói đến các kích thích tố phổ biến, estrogen là một trong những hormon được đề cập đến nhiều nhất. Đây là hormon chủ yếu được tiết ra ở buồng trứng, nhưng nó cũng được tìm thấy ở nam giới và được tiết ra bởi các mô khác nhau, được sử dụng trong thành phần của thuốc ngừa thai, liệu pháp hormon thay thế, điều trị loãng xương… Ở phụ nữ, estrogen được tạo ra bằng cách chuyển đổi các kích thích tố nam, được gọi chung là androgen thành estrogen. Và các nội tiết tố androgen ban đầu được bắt nguồn từ cholesterol – steroid chính làm phát sinh nhiều nhóm hormon steroid. Quá trình chuyển đổi từ cholesterol thành androgen, hoặc từ androgen thành estrogen được thực hiện thông qua các hoạt động của một nhóm các enzym nhất định. Da có rất nhiều các chức năng khác nhau, trong da cũng có các thành phần cần thiết để sản xuất cholesterol và tổng hợp được các steroid sinh dục.
Estrogen giúp da và tóc khỏe mạnh hơn
Trong da, estrogen ảnh hưởng đến độ dày, sự hình thành nếp nhăn và độ ẩm cho da. Estrogen có thể gia tăng các glycosaminoglycan để duy trì sự cân bằng chất lỏng và kết cấu tế bào. Estrogen cũng có thể làm tăng sản xuất collagen trong da, duy trì độ dày biểu bì, độ ẩm và giữ da căng mịn. Trong thời gian nội tiết tố hoạt động cao như mang thai hoặc dùng một số thuốc tránh thai có thể làm nám da trầm trọng hơn trong khu vực tiếp xúc ánh nắng như trán, mũi và má do hormon ảnh hưởng đến sắc tố da. Bên cạnh các tác động lên da, estrogen cũng có thể làm cho tóc mọc dài và khỏe mạnh. Trong thời gian mang thai, phụ nữ thường bị tăng trưởng tóc kéo dài. Việc giảm mạnh estrogen sau khi sinh và mức độ estrogen trong giai đoạn mãn kinh gây ra loãng xương và rụng tóc.
Về bản chất, estrogen giúp da và tóc khỏe mạnh hơn. Tất nhiên, với tuổi dậy thì, kinh nguyệt và mãn kinh, progesterone cũng giữ một vai trò quan trọng nhất định. Tuy nhiên, các nghiên cứu vẫn còn rất ít trong lĩnh vực này. Nghiên cứu trong tương lai hy vọng sẽ làm sáng tỏ về sự tương tác giữa estrogen và progesterone, để hiểu rõ hơn về những ảnh hưởng trên da và tóc.
Thuốc ngừa thai hỗn hợp hai loại nội tiết tố
Một số phụ nữ giai đoạn trước kinh nguyệt bùng phát mụn trứng cá do hormon thay đổi trong chu kỳ. Ở một số người, mụn trứng cá tồn tại qua nhiều năm, thậm chí sau khi mãn kinh. Mụn được kích hoạt bởi sự sản xuất bã nhờn dư thừa. Bã nhờn là một loại dầu được bài tiết bởi các tuyến trong da. Cùng với các tế bào da, bã nhờn có thể làm tắc nghẽn lỗ chân lông và thúc đẩy sự tăng trưởng của vi khuẩn góp phần gây ra mụn. Androgen, một nhóm các hormon trong đó bao gồm testosterone, kích thích da sản xuất bã nhờn. Buồng trứng của người phụ nữ và tuyến thượng thận thường sản xuất một mức độ thấp nội tiết tố androgen. Mức độ cao hơn của androgen có thể dẫn đến bã nhờn dư thừa. Dùng thuốc ngừa thai có chứa cả estrogen và progesterone làm giảm lượng androgen trong cơ thể. Điều này dẫn đến ít bã nhờn và mụn trứng cá hơn.
Thuốc ngừa thai có chứa cả estrogen và progesterone làm giảm lượng androgen trong cơ thể
Hormon sinh dục nam
Testosterone là hormon sinh dục nam, giữ vai trò chính trong những biểu hiện ở nam giới. Thuốc chứa testosterone được dùng trong điều trị chứng suy sinh dục ở nam giới. Tóc thô, da dày và nhờn là dấu hiệu của lão hóa da do testosterone. Nồng độ androgen tăng cao là nguyên nhân phổ biến nhất gây rụng tóc và hói đầu. Điều này xảy ra khi tỷ lệ estrogen và testosterone trở nên không cân bằng, cụ thể là sau thời kỳ mãn kinh. Testosterone tham gia vào sản xuất bã nhờn trên da, dẫn đến tăng keratin hóa, hình thành mụn trứng cá. Liều lượng testosterone cao các chất liên quan có thể làm tăng lipid bề mặt da, cholesterol và nồng độ acid béo tự do. Phụ nữ có thể gặp sự tăng tiết bã nhờn hoặc mụn khi có sự mất cân bằng hormon. Những ảnh hưởng của nội tiết tố nam trên da rất quan trọng ở cả nam và nữ vì đều có sự thay đổi nhất định về nồng độ androgen.
Hormon tuyến giáp (T3/T4)
Các thuốc có hoạt tính tương tự được dùng trong điều trị nhược giáp. Tuyến giáp là một tuyến nhỏ hình bướm. Tuyến giáp sản xuất hai loại hormon ảnh hưởng đến sự trao đổi chất, sự phát triển trí não, hơi thở, nhiệt độ cơ thể, sức mạnh cơ bắp, sức khỏe của xương, da khô, chu kỳ kinh nguyệt, trọng lượng và mức cholesterol. Sự cân bằng là quan trọng khi nói đến những hormon. Khi có sự tăng tiết hormon tuyến giáp, da có thể trở nên nóng, tăng tiết mồ hôi và đỏ ửng. Sự giảm tiết làm da trở nên khô, thô, dày và giảm tiết mồ hôi. Rối loạn chức năng tuyến giáp cũng có thể dẫn đến tóc mảng và rụng.
Tác dụng phụ khi sử dụng vitamin A
Vitamin A đóng một vai trò quan trọng trong việc cần bằng nội môi của các biểu mô khác nhau (bao gồm biểu bì) và giữ vai trò quan trọng cho việc duy trì tốc độ tăng trưởng bình thường, sự biệt hóa tế bào. Vì vậy, vitamin A được sử dụng trong điều trị một số bệnh như vẩy nến, tăng sừng, mụn, lão hóa sớm, tổn thương do bức xa. chống lão hóa của da, tăng tổng hợp, ức chế sự suy thoái của collagen ở lớp trung bì và cải thiện nếp nhăn thô.
Vitamin A có thể gây kích ứng tại chỗ trên da. Đối với tất cả các dạng bội, hiệu ứng kích ứng da là phụ thuộc vào liều. Những dạng vitamin A này có thể gây ra một số tình trạng kích ứng với các biểu hiện đỏ, khô, bong tróc da, ban đỏ, ngứa, sưng, phù nề, phồng rộp ở các vị trí dùng thuốc.
Hiện tại chưa có những nghiên cứu rõ ràng về sự tương quan giữa nồng độ và tác dụng phụ để xác định nồng độ an toàn cho việc sử dụng vitamin A trong mỹ phẩm. Tuy nhiên, các dữ liệu hiện có chấp nhận rằng tác động bất lợi khu trú trên da có thể xuất hiện sau khi sử dụng vitamin A ở nồng độ khoảng 0,075% và cao hơn.
Vitamin A có thể gây kích ứng tại chỗ trên da
Các tác dụng phụ nói chung bao gồm:
– Làm mỏng biểu bì, tăng nhạy cảm và gây ra một số thương tổn nhất định trước và sau điều trị. Không nên sử dụng các biện pháp wax da hay điều trị bằng laser trong quá trình dùng isotretinoin và trong 5-6 tháng sau khi ngừng điều trị.
– Làn da có thể trở nên bị kích thích nếu sử dụng các chế phẩm uống và dùng tại chỗ, tăng nhạy cảm da với ánh sáng. Trong quá trình điều trị nên tránh phơi nhiễm với ánh sáng mặt trời.
– Hoạt chất có thể gây hại cho thai nhi. Nó cũng có thể làm tăng nguy cơ sẩy thai hoặc gây quái thai. Do đó, trong thời gian dùng thuốc không nên có thai. Cần chú ý sử dụng các biện pháp tránh thai ít nhất là một tháng sau khi ngưng điều trị.
– Một số phản ứng không mong muốn thường gặp: lưng, các vấn đề máu, viêm da, khô mắt, da khô, làn da mỏng manh có thể bị hỏng, viêm, nứt da của mỗi hoặc lộ môi (nên sử dụng một son dưỡng môi trong khi đang dùng thuốc), kích thích, viêm mắt hoặc mí mắt.
Các loại thuốc trị mụn dùng tại chỗ
- Adapalen, tazaroten, tretinoin, clindamycin, erythro mycin có thể gây ra tình trạng ngứa, bong tróc, đỏ da, khô da.
- Acid azelaic: giảm sắc tố, bỏng rộp, ngứa.
- Benzoyl peroxide: khô da, ban đỏ.
- Dapson: nhờn da, bong tróc, khô da, ngứa.
- Acid salicylic: khô da, kích ứng tại chỗ.
Các loại thuốc trị mụn dùng bằng đường uống
Kháng sinh nhóm macrolid
- Gây kích ứng dạ dày.
- Tổng cộng có 20% đến 30% bệnh nhân dùng clindamycin uống có biểu hiện bị tiêu chảy. Clindamycin uống cũng có thể gây rối loạn vi khuẩn đường ruột, gây ra viêm đại tràng giả mạc.
Kháng sinh nhóm cyclin
- Một vấn đề chung của nhóm thuốc này là có thể gây tăng nhạy cảm với ánh sáng, khó chịu đường tiêu hóa, rất hiếm khi gây viêm thực quản và viêm tụy.
- Rối loạn tiền đình, chóng mặt và hoa mắt, da có thể xuất hiện những vệt màu xanh-xám. Biểu hiện tăng sắc tố này có thể phân bố ở những vết sẹo do tiếp xúc ánh sáng, phụ thuộc vào cường độ và thời gian tiếp xúc. Một số tác dụng phụ hiếm xảy ra khác là lupus ban đỏ, viêm mạch và suy gan.
- Tất cả các cyclin đều cần phải được sử dụng một cách thận trọng trên những bệnh nhân bị bệnh thận do có thể làm tăng urê huyết.
- Ngoài ra, thuốc đã được báo cáo có khả năng ức chế tăng trưởng xương ở bào thai. Vì vậy, chúng không nên được sử dụng trên phụ nữ mang thai, đặc biệt là sau 4 tháng đầu thai kỳ, trẻ em dưới 2 tuổi trong điều trị mụn trứng cá.
Kháng sinh ciprofloxacin và trimethoprim sulfamethoxazole
Cũng có thể được sử dụng trong điều trị mụn trứng cá. Tác dụng phụ bao gồm thiếu máu, giảm tiểu cầu, mất bạch cầu hạt, phản ứng quá mẫn. Việc sử dụng loại thuốc này trong điều trị mụn còn nhiều tranh cãi và có ý kiến cho rằng chỉ nên sử dụng khi phác đồ điều trị khác không hiệu quả.
Phản ứng bất lợi khi sử dụng các thuốc chiết xuất từ dược liệu
Các phản ứng ngoài da phổ biến nhất từ thảo dược là bệnh viêm da tiếp xúc dị ứng. Những dược liệu có thể gây ra tình trạng này bao gồm lô hội, cây họ cúc, hoa cúc, dầu tràm trà và cỏ thi. Những phản ứng nghiêm trọng hơn bao gồm viêm da tróc vảy và hội chứng StevensJohnson. Tác dụng phụ toàn thân nghiêm trọng đã được báo cáo trong một số các liệu pháp thảo dược để điều trị các bệnh về da. Đa số là gây độc cho gan. Tuy nhiên, tác dụng phụ nguy hiểm lại rất hiếm gặp. Cần tây được biết đến có chứa psoralen, một nhóm các chất gây phản ứng A khi tiếp xúc với tia UVA, làm tăng nguy cơ chảy máu hoặc làm tăng tác dụng điều trị warfarin. Gốc cần tây là một nguyên nhân thường gặp của dị ứng thực phẩm ở những bệnh nhân nhạy cảm.